Đại biểu Quốc hội tỉnh Thái Nguyên đồng thuận cao với chủ trương hợp nhất 3 Chương trình mục tiêu quốc gia
Tiếp tục chương trình làm việc tại Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khoá XV, chiều 3/12, sau khi làm việc tại Hội trường, Quốc hội thảo luận tại Tổ về: Chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia về nông thôn mới, giảm nghèo bền vững, phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi đến năm 2035; Dự thảo Nghị quyết của Quốc hội sửa đổi, bổ sung một số điều Nghị quyết số 98/2023/QH15 về thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển Thành phố Hồ Chí Minh; Dự thảo Nghị quyết của Quốc hội sửa đổi, bổ sung một số điều Nghị quyết số 136/2024/QH15 về tổ chức chính quyền đô thị và thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển thành phố Đà Nẵng; Chủ trương đầu tư Dự án đầu tư xây dựng đường bộ cao tốc Vinh - Thanh Thủy.

Toàn cảnh thảo luận tổ
Tham gia ý kiến về Chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia về nông thôn mới, giảm nghèo bền vững, phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi đến năm 2035, các đại biểu đều tán thành với việc tích hợp 3 chương trình quốc gia làm một sẽ giúp tập trung hiệu quả hơn các nguồn lực, kế thừa các chính sách hiện có. Đồng thời, bảo đảm tính đồng bộ và hiệu quả trong quản lý nhà nước. Tuy nhiên, đại biểu Quốc hội Đoàn Thái Nguyên có một số đề nghị như sau:
Đại biểu Nguyễn Lâm Thành (Đoàn ĐBQH tỉnh Thái Nguyên) đề nghị làm rõ phạm vi, đối tượng áp dụng, đặc biệt đối với vùng dân tộc thiểu số, miền núi, bãi ngang ven biển, xã đặc biệt khó khăn, xã biên giới và xã đảo; đề nghị Chính phủ nghiên cứu kỹ khái niệm “xã nghèo”, “xã miền núi”, “xã đặc biệt khó khăn” để bảo đảm áp dụng thống nhất, phù hợp thực tiễn. Về đối tượng thụ hưởng, cần mở rộng chính sách cho doanh nghiệp, hợp tác xã hoạt động tại vùng dân tộc thiểu số, miền núi nhằm thúc đẩy quan hệ sản xuất và phát triển kinh tế địa phương.
Liên quan nội dung chương trình, đại biểu đề nghị Ban soạn thảo rà soát kỹ các hợp phần, tránh dàn trải; chỉ đưa vào những nội dung thật sự cần thiết, có tính khả thi và gắn kết với các chương trình quốc gia khác như giáo dục, y tế, văn hóa, phòng chống tệ nạn. Về nguồn lực, đại biểu đề nghị Chính phủ xác định rõ tổng mức vốn, cơ cấu vốn ngân sách trung ương, địa phương và tín dụng; xem xét lại tỷ lệ đóng góp của địa phương cho phù hợp khả năng cân đối ngân sách, đặc biệt đối với các tỉnh nghèo. Chính sách tín dụng cần minh bạch, tạo điều kiện để địa phương chủ động bố trí nguồn vốn qua hệ thống ngân hàng chính sách. Đại biểu cũng nhấn mạnh yêu cầu hoàn thiện cơ chế phân bổ vốn và lập kế hoạch theo hướng phân cấp mạnh cho địa phương, gắn trách nhiệm với xác định nhu cầu thực tế và hiệu quả sử dụng vốn. Đồng thời, cần tận dụng tối đa các cơ chế đặc thù theo nghị quyết của Quốc hội nhằm giúp địa phương chủ động triển khai.

Các vị ĐBQH tỉnh Thái Nguyên đồng tình với chủ trương hợp nhất 3 Chương trình mục tiêu quốc gia và tham gia nhiều ý kiến góp ý cụ thể
Đại biểu Hà Sỹ Huân (Đoàn ĐBQH tỉnh Thái Nguyên) cho rằng để thực hiện hiệu quả mục tiêu giai đoạn tiếp theo, đại biểu đề nghị cần tiếp tục rà soát, bổ sung các cơ chế đặc thù liên quan đến thủ tục và thể chế, nhất là ở các văn bản hướng dẫn của bộ, ngành và địa phương. kế thừa các quy định đặc thù đã chứng minh hiệu quả để tháo gỡ vướng mắc cho địa phương khi bước sang giai đoạn mới.
Về chính sách phát triển kinh tế đối với vùng đồng bào dân tộc thiểu số, đại biểu cho rằng nhiều chỉ tiêu trong chương trình là phù hợp, nhưng để đạt được cần có cơ chế thực thi hiệu quả. Đại biểu nêu rõ các vướng mắc trước đây, như việc chỉ hỗ trợ doanh nghiệp, hợp tác xã đăng ký kinh doanh ngay tại địa bàn, dẫn đến hạn chế thu hút đầu tư; nhiều doanh nghiệp ở nơi khác có năng lực nhưng không đủ điều kiện tham gia. Do đó, chính sách mới cần mở rộng hơn, tạo điều kiện để doanh nghiệp đầu tư vào vùng khó khăn, hỗ trợ phát triển cơ sở chế biến, hạ tầng sản xuất, khoa học kỹ thuật và tiêu thụ sản phẩm. Nội dung được đại biểu đặc biệt quan tâm là vấn đề bố trí, sắp xếp ổn định dân cư tại các tỉnh miền núi sau thiên tai. Đại biểu cho rằng đây là nhiệm vụ cấp thiết, bởi nhiều công trình, nhà ở và hạ tầng vừa được đầu tư đã bị thiệt hại nặng nề. Đại biểu đề nghị các bộ, ngành tổng hợp bài học kinh nghiệm từ thực tiễn, hoàn thiện cơ chế giao đất, cấp đất, xây dựng khu dân cư tập trung theo hướng linh hoạt, đồng thời tháo gỡ các vướng mắc liên quan đến đất rừng và đất nông nghiệp để người dân có điều kiện ổn định lâu dài, phát triển sản xuất.
Về phân cấp, phân quyền, đại biểu cho rằng cần tiếp tục giao cho địa phương theo hướng rõ trách nhiệm, rõ thẩm quyền; địa phương chủ động rà soát nhu cầu, xác định thứ tự ưu tiên và trực tiếp tổ chức thực hiện. Đại biểu cũng kiến nghị cần làm rõ thẩm quyền của Hội đồng nhân dân cấp xã trong quyết định phân bổ nhiệm vụ và nguồn lực để phù hợp tính linh hoạt của từng địa bàn, bảo đảm không chồng chéo, không trùng lặp và nâng cao trách nhiệm của cấp cơ sở.
Đại biểu Nguyễn Thị Huế (Đoàn ĐBQH tỉnh Thái Nguyên) bày tỏ băn khoăn về cơ cấu nguồn vốn trong dự thảo Chương trình mục tiêu quốc gia. Với tổng mức vốn 1,23 triệu tỷ đồng, trong đó ngân sách trung ương chỉ bố trí 8% (khoảng 100.000 tỷ đồng), ngân sách địa phương phải đảm bảo 33% (400.000 tỷ đồng). So sánh với giai đoạn trước, đại biểu chỉ ra sự có sự chênh lệch lớn, đại biểu cho rằng tỉ lệ mới phân bổ cao cho địa phương, nhất là khi nhiều tỉnh còn khó khăn, nhu cầu đầu tư lớn, chưa hoàn thành các mục tiêu của giai đoạn trước. Đại biểu đề nghị Trung ương phải giữ vai trò điều phối, điều tiết để bảo đảm tính công bằng và phù hợp với năng lực của từng địa phương. Theo đại biểu việc lồng ghép nguồn vốn từ các chương trình mục tiêu quốc gia và các chương trình, dự án khác (khoảng 360.000 tỷ đồng, chiếm 29%) là cần thiết, nhưng hiện còn nhiều điểm chưa thống nhất. Qua nghiên cứu dự thảo Nghị quyết về Chương trình mục tiêu quốc gia hiện đại hóa, nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo giai đoạn 2026 - 2035, đại biểu nhận thấy phạm vi thực hiện là toàn quốc nhưng đối tượng thụ hưởng lại không bao gồm các trường phổ thông dân tộc nội trú, bán trú, trường dự bị đại học và một số trường đặc thù khác.
Trong khi đó, theo báo cáo của Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số, hệ thống trường dân tộc nội trú, bán trú đang được đầu tư lớn với hàng nghìn phòng học, phòng ở, nhà ăn, công trình phục vụ sinh hoạt. Tuy nhiên, kết quả đạt được chưa được đánh giá đầy đủ. Cả nước hiện có hơn 1.500 trường dân tộc nội trú, bán trú với hơn 403.000 học sinh, cho thấy nhu cầu đầu tư còn rất lớn. Đại biểu băn khoăn về nguy cơ xuất hiện “khoảng trống” chính sách do sự thiếu thống nhất giữa các chương trình mục tiêu quốc gia: chương trình này trông chờ nguồn lực từ chương trình khác. Do vậy đại biểu đề nghị Chính phủ và các bộ, ngành cần rà soát, đánh giá toàn diện, để thống nhất phạm vi, đối tượng và nhu cầu đầu tư, tránh bỏ sót và bảo đảm triển khai thông suốt trong thời gian tới.
Phòng TTDN